Các sự kiện trong chiến tranh Chiến_tranh_Thanh-Nhật

Khai chiến

Cho đến tháng 7 năm 1894, quân Thanh ở Triều Tiên có khoảng 3.000-3.500 lính và chỉ có thể tiếp tế bằng đường biển qua vịnh Asan. Quân Nhật có kế hoạch là ban đầu phong tỏa quân Thanh tại Asan và sau đó bao vây họ bằng bộ binh.

Đắm tàu Cao Thăng

Bài chi tiết: Trận P'ungto

Tàu Cao Thăng là một tàu buôn của Anh nặng 2.134 tấn do Indochina Steam Navigation Company ở Luân Đôn làm chủ, do thuyền trưởng T. R. Galsworthy chỉ huy và thủy thủ đoàn gồm 64 người. Chiếc tàu được triều đình Thanh thuê chở quân Thanh đến Triều Tiên. Ngày 25 tháng 7, Cao Thăng khởi hành tới Asan để tiếp viện cho quân Thanh ở đó với 1.200 lính cộng thêm lương thực và trang bị. Một sĩ quan pháo binh Đức, Thiếu tá von Hanneken, với vị trí cố vấn cho quân Thanh cũng ở trên tàu.

Ngày 25 tháng 7 năm 1894, các tuần dương hạm Yoshino, Naniwa, Akitsushima của hạm đội cơ động Nhật Bản, vốn đang tuần tra Asan, đụng đầu với Phóng lôi hạm Tế ViễnPháo hạm Quảng Ất. Những con tàu này đang đi ra khỏi Asan (Nha Sơn) để gặp một pháo hạm Trung Quốc khác, chiếc Pháo hạm Thao Giang, đang hộ tống tàu Cao Thăng đến Asan. Sau một cuộc chạm trán nhanh chóng, khoảng 1 giờ đồng hồ, chiếc Tế Viễn chạy thoát trong khi chiếc Quảng Ất bị mắc cạn, và kho thuốc súng của nó phát nổ.

Tuần dương hạm Naniwa (Lãng Tốc) (dưới sự chỉ huy của thuyền trưởng Togo Heihachiro) chặn đường Thao Giang và Cao Thăng. Thao Giang cuối cùng bị bắt sống. Người Nhật sau đó ra lệnh cho Cao Thăng đi theo Naniwa và yêu cầu những người châu Âu trên tàu chuyển qua tàu Naniwa. Tuy vậy, 1.200 quân Thanh trên tàu muốn trở về Taku, và đe dọa giết thuyền trưởng người Anh, Galsworthy và thủy thủ đoàn. Sau 4 giờ đàm phán, Thuyền trường Togo ra lệnh nổ súng vào con tàu. Những người châu Âu nhảy lên boong đều bị quân Thanh bắn hạ. Người Nhật cứu được vài người trong thủy thủ đoàn. Việc chiếc Cao Thăng bị đánh chìm tạo ra một trục trặc ngoại giao giữa Nhật Bản và Anh, nhưng hành động này được chỉ dẫn phù hợp với luật pháp quốc tế theo điều khoản đối xử với người làm binh biến.

Giao chiến ở Triều Tiên

Được triều đình Triều Tiên thân Nhật mới ủy nhiệm đánh đuổi quân Thanh khỏi lãnh thổ Triều Tiên bằng vũ lực, Thiếu tướng Oshima Yoshimasa dẫn lữ đoàn hỗn hợp Nhật Bản gồm 4.000 binh sĩ hành quân nhanh chóng từ Seoul xuống phía Nam đến vịnh Asan đối mặt với 3.500 quân Thanh đang đóng tại đồn Sŏnghwan (Thành Hoan) phía Đông Asan và Kongchu (Công Châu).

Ngày 28 tháng 7 năm 1894, quân hai bên chạm trán ngay ngoài Asan trong một trận đánh kéo dài đến 7 giờ 30 phút sáng ngày hôm sau. Quân Thanh dần dần mất trận địa vào quân Nhật đông hơn và mạnh hơn; cuối cùng tan vỡ và chạy về Pyongyang (Bình Nhưỡng). Thương vong phía quân Thanh là khoảng 500 người bị chết và bị thương. Phía quân Nhật là 82 người.

Chiến tranh Nhật-Thanh chính thức được tuyên bố vào ngày 1 tháng 8 năm 1894.

Quân Thanh còn lại ở Triều Tiên, cho đến ngày 4 tháng 8, rút lui đến thành phố phía Bắc Bình Nhưỡng, nơi họ hợp cùng đội quân mới được gửi đến. Lực lượng phòng thủ 13.000-15.000 người chuẩn bị và củng cố kỹ lưỡng cho thành phố, hy vọng sẽ cản trở được bước tiến của quân Nhật.

Lục quân Đế quốc Nhật Bản chia làm vài mũi cùng kéo về Bình Nhưỡng vào ngày 15 tháng 9 năm 1894. Quân Nhật đột kích vào thành phố và cuối cùng tiêu diệt quân Thanh nhờ một cuộc tấn công từ cánh. Quân Thanh đầu hàng. Tuy vậy, lợi dụng trận mưa lớn và đêm tối, lực lượng quân Thanh còn lại hành quân ra khỏi Bình Nhưỡng và tiến lên phía Bắc đến bờ biển và thành phố Uiju (Nghĩa Châu). Thương vong của quân Thanh là 2.000 người chết, 4.000 người bị thương. Của phía Nhật là 102 người chết, 433 người bị thương và 33 người mất tích. Toàn quân Nhật tiến vào Bình Nhưỡng sáng sớm ngày 16 tháng 9 năm 1894.

Hải chiến Hoàng Hải

Tiêu diệt hạm đội Bắc Dương

Hải quân Đế quốc Nhật Bản tiêu diệt 8 trong số 10 tàu chiến của Hạm đội Bắc Dương trên biển Hoàng Hải gần cửa sông Áp Lục ngày 17 tháng 9 năm 1894. Quyền thống trị mặt biển của người Nhật được khẳng định. Tuy vậy, quân Thanh vẫn đổ bộ được 4.500 lính ở gần sông Áp Lục.

Xâm lược Mãn Châu Lý

Sau thất bại ở Bình Nhưỡng, nhà Thanh bỏ Bắc Triều Tiên và chuyển sang giữ thế thủ trên các đồn ở sông Áp Lục bên phía Trung Quốc gần Áp Lục Giang. Sau khi nhận được quân cứu viện, ngày 10 tháng 10 quân Nhật nhanh chóng tiến về phía Bắc hướng đến Mãn Châu.

Đêm ngày 24 tháng 10 năm 1894, quân Nhật vượt được sông Áp Lục mà không bị phát hiện nhờ dựng các cầu phao. Chiều hôm sau, ngày 25 tháng 10 lúc 5 giờ chiều, họ tấn công đồn Hushan, phía Đông Áp Lục Giang. Lúc 10 giờ 30 tối, quân Thanh phòng thủ bỏ vị trí của mình và cho đến ngày hôm sau đã rút lui toàn bộ khỏi Áp Lục Giang. Với việc chiếm được Áp Lục Giang, Tập đoàn quân số 1 của Tướng Yamagata đã chiếm được ngoại ô thành phố Đan Đông. Trong khi đó, đội quân tháo chạy của Lục quân Bắc Dương nổi lửa đốt thành phố Phụng Thành. Quân Nhật đã đứng vững chắc trên lãnh thổ Trung Quốc với chỉ 4 người bị giết và 140 người bị thương.

Tập đoàn quân số 1 sau đó chia làm 2 hướng với Sư đoàn địa phương số 5 của Tướng Nozu Michitsura tiến đến thành phố Thẩm Dương và Sư đoàn địa phương số 3 của Trung tướng Katsura Taro đuổi theo tàn quân Thanh về phía Tây đến bán đảo Liêu Đông. Cho đến tháng 12, Sư đoàn địa phương số 3 đã chiếm được các thị trấn Ta-tung-kau, Ta-ku-shan, Tự Nham, Tomu-cheng, Hai-cheng, và Kang-wa-seh. Sư đoàn địa phương số 5 hành quân chống lại thời tiết khắc nghiệt ở Mãn Châu Lý tiến đến Thẩm Dương.

Tập đoàn quân số 2 của Oyama Iwao đổ bộ xuống phía Nam bán đảo Liêu Đông ngày 24 tháng 10 và nhanh chóng chiếm được Tiến Hiền và Đại Liên vào các ngày 6-7 tháng 11. Quân Nhật bao vây cảng chiến lược Lữ Thuận.

Chiến tranh Nhật-Thanh, các trận đánh và hướng hành quân chính.

Lữ Thuận Khẩu thất thủ

Ngày 21 tháng 11 năm 1894, quân Nhật đã chiếm được thành phố Lữ Thuận. Quân Nhật được cho là đã thảm sát hàng ngàn thường dân Trung Quốc, trong một sự kiện gọi là Đại tàn sát Lữ Thuận (Lữ Thuận đại đồ sát).

Ngày 10 tháng 12 năm 1894, Kaipeng (ngày nay là Cái Huyện, tỉnh Liêu Ninh, Trung Quốc) mất về tay Tập đoàn quân số 1 Nhật Bản.

Uy Hải Vệ thất thủ và sau trận đánh

Hải quân Thanh sau đó rút lui đến sau các công sự tại Uy Hải Vệ. Tuy vậy, họ lại bị lục quân Nhật Bản đột kích vào sườn quân phòng ngự bến cảng. Trận Uy Hải Vệ kéo dài 23 ngày bao vây với lực lượng bộ binh và thủy quân lớn diễn ra từ 20 tháng 1 đến 12 tháng 2 năm 1895.

Sau sự thất thủ của Uy Hải Vệ vào ngày 12 tháng 2 năm 1895 và thời tiết mùa đông bớt khắc nghiêt, quân đội Nhật tiến sâu hơn nữa xuống phía Nam Mãn Châu và Bắc Trung Quốc. Cho đến tháng 3 năm 1895, quân Nhật đã chiếm được các đồn kiểm soát đường biển đến Bắc Kinh. Đây sẽ là những trận đánh lớn cuối cùng, tuy vậy, hàng loạt các vụ xung đột lẻ tẻ vẫn tiếp diễn. Trận Doanh Khẩu diễn ra ngoài thành Doanh Khẩu, Mãn Châu Lý vào ngày 5 tháng 3 năm 1895.

Xâm lược Đài Loan và Bành Hồ

Ngày 26 tháng 3 1895, quân Nhật xâm lược và chiếm quần đảo Bành Hồ ngoài khơi Đài Loan mà không bị thương vong, trong khi đó vào ngày 29 tháng 3 năm 1895, quân Nhật dưới quyền chỉ huy của Đô đốc Motonori Kabayama đổ bộ xuống phía Bắc Đài Loan và tiến lên chiếm toàn bộ nó.

  • [[::Media:Naval battle.ogg|IJN Naval battle]] ([[::Image:Naval battle.ogg|thông tin]])
    • Video cảnh hải chiến trong Chiến tranh Trung-Nhật lần thứ nhất (1894)
  • Trục trặc khi xem? Xem hướng dẫn.